Phần thứ nhất
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CÔNG ƯỚC CỦA
LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG
VÀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
I. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG
1. Những thông tin chung về Công ước
Theo thông tin của Liên Hợp quốc[1], Công ước năm 2003 về chống tham nhũng là một trong 19 điều ước quốc tế trực tiếp về các vấn đề hình sự (Penal Matters) được đăng ký lưu chiểu tại Liên Hợp quốc.
Công ước được Đại Hội đồng LHQ thông qua ngày 01.10.2003 tại Trụ sở LHQ ở New York. Công ước được mở cho tất cả các nước thành viên LHQ ký từ ngày 09 đến ngày 11.12.2003 tại Merida, Mexico, và sau đó là tại Trụ sở LHQ ở New York đến ngày 09.12.2005. Công ước cũng được mở cho tất cả các tổ chức hội nhập kinh tế quốc tế khu vực ký nếu tổ chức đó có ít nhất là một nước thành viên đã ký Công ước này. Ngày 10.12.2003,Việt Nam đã ký Công ước với bảo lưu gửi kèm theo Văn kiện phê chuẩn ngày 19 tháng 8 năm 2009 như sau:
“Xét Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 01 tháng 10 năm 2003,
Và, xét Công ước đã được ký thừa uỷ quyền của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào ngày 10 tháng 12 năm 2003.
Bằng văn kiện này, Tôi, Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố rằng, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi đã nghiên cứu kỹ nội dung Công ước, phê chuẩn Công ước này và cam kết sẽ thi hành đầy đủ các quy định của Công ước .
Khi phê chuẩn Công ước, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, căn cứ khoản 3 Điều 66 của Công ước, tuyên bố nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không bị ràng buộc bởi khoản 2 Điều 66 của Công ước. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng thời gửi kèm Bản Tuyên bố về việc thực thi Công ước này.
Để làm bằng, Tôi đã ký và đóng dấu Văn kiện Bảo lưu này.”.
Ngoài ra, Việt Nam cũng tuyên bố gửi kèm theo Văn kiện phê chuẩn ngày 19 tháng 8 năm 2009 như sau:
“ 1. Phù hợp với nguyên tắc của pháp luật Việt Nam, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc bởi các quy định về hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp theo quy định tại Điều 20 và quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định tại Điều 26 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
2. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; việc thực hiện các quy định của Công ước trên sẽ theo nguyên tắc Hiến pháp và pháp luật thực định của Việt Nam, trên cơ sở các thoả thuận hợp tác song phương hoặc đa phương với nước khác và nguyên tắc có đi có lại.
3. Căn cứ Điều 44 của Công ước, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố không coi Công ước là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ; Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện dẫn độ theo quy định của pháp luật Việt Nam, trên cơ sở các hiệp định về dẫn độ và nguyên tắc có đi có lại.”. Viet Nam
Ngày 14.12.2005, Công ước có hiệu lực thi hành, có 143 nước là thành viên (đến ngày 20.6.2010). Ngày 18.9.2009, Công ước này có hiệu lực thi hành đối với Việt Nam.
[1]. Xem: http://treaties.un.org/Pages.aspx?id=18&subid=A&lang=en
.- Nghị định thư năm 1953 bổ sung Công ước về Nô lệ năm 1926;
- Công ước về Nô lệ năm 1926 được sửa đổi năm 1953 (Việt Nam cộng hòa gia nhập ngày 14.8.1956);
- Công ước về Nô lệ năm 1926;
- Công ước bổ sung năm 1956 về Loại bỏ chế độ buôn bán nô lệ và thực tiễn tương tự chế độ nô lệ;
- Công ước năm 1979 về việc bắt giữ con tin;
- Công ước năm 1989 chống tuyển mộ, sử dụng, tài trợ và huấn luyện lính đánh thuê;
- Công ước năm 1973 ngăn ngừa và trừng trị tội phạm chống người được quốc tế bảo hộ, kể cả chống lại các nhà ngoại giao (Việt Nam gia nhập 02.5. 2002);
- Công ước năm 1994 về an ninh cho Liên Hợp quốc và các nhân viên của Liên Hợp quốc;
- Nghị định thư năm 2005 về Công ước về an ninh cho Liên Hợp quốc và các nhân viên của Liên Hợp quốc;
- Công ước năm 1997 loại trừ đánh bom khủng bố;
- Quy chế Rôm năm 1998 về Tòa án hình sự quốc tế ;
- Công ước năm 1999 loại trừ tài trợ cho chế độ khủng bố (Việt Nam gia nhập ngày 25.9.2002);
- Công ước năm 2000 chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Việt Nam ký năm 2000, chưa phê chuẩn );
- Nghị định thư bổ sung năm 2000 của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia về phần ngăn ngừa, loại trừ và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em;
- Nghị định thư bổ sung năm 2000 của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia về phần chống dân di cư buôn lậu bằng đường bộ, đường biển và hàng không;
- Nghị định thư bổ sung năm 2001 của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia về phần chống sản xuất và buôn bán trái phép vũ khí, các bộ phận, linh kiện và đạn dược của vũ khí quân dụng;
- Hiệp định năm 2002 về ưư đãi, miễn trừ của Tòa án hình sự quốc tế;
- Công ước năm 2003 chống tham nhũng (Việt Nam ký 10.12.2003, có hiệu lực từ 18.9.2009);
- Công ước năm 2005 về loại trừ hành vi khủng bố hạt nhân.